Đồng bằng sông Cửu Long: Biến đổi khí hậu không còn là “kịch bản”
Những năm gần đây các hiện tượng, nhiệt độ tăng cao, ngập lụt, hạn hán, giông lốc, sạt lở bờ sông, nước biển dâng, xâm nhập mặn xuất hiện không theo chu kỳ và tác động mạnh đến đời sống người dân khu vực ĐBSCL. Nhiều chuyên gia, nhà khoa học đã lo lắng và cảnh báo về tình trạng biến đổi khí hậu (BĐKH) đang ngày càng diễn biến phức tạp…
Hiện trường vụ sạt lở nghiêm trọng tại Cần Thơ cuối tháng 5 vừa qua.
Biến đổi khí hậu ngày càng hiện hữu
Chưa năm nào một số tỉnh khu vực ĐBSCL như Bến Tre, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, An Giang lại rơi vào tình trạng khan hiếm nước ngọt như năm nay.
Đã vào mùa mưa nhưng những ngày gần đây, một số huyện của tỉnh Kiên Giang như An Biên, An Minh (Kiên Giang) vẫn trong tình trạng khan hiếm nước ngọt. Nước biển dâng, nước mặn lấn sâu vào nội đồng, thậm chí nguồn nước ngầm cũng bị nhiễm mặn khiến cho người dân không thể sử dụng được các cây nước đành phải đi mua nước từ nơi khác.
Ông Nguyễn Văn Tiến ngụ tại xã Nam Thái A, huyện An Biên nhớ lại gần chục năm trước: Khắp vùng này nước ngọt mênh mông, từ khi người dân quây lại nuôi tôm, cua, dần dần nước ngọt không thấy, các ao, đìa cũng khô queo. Người dân phải mua cả 100 ngàn đồng mới được 1 khối nước ngọt để xài…Hơn 2.000 hộ dân xã Nam Thái A đang thiếu nước ngọt nghiêm trọng – ông Nguyễn Việt Bình, Bí thư Đảng ủy xã Nam Thái A lo lắng.
Còn xã Nam Thái, thì ông Huỳnh Văn Thanh, Phó chủ tịch UBND xã lo lắng khi thời gian qua, gần 400 hộ dân tại 2 ấp Sáu Biển và Đồng Giữa phải bỏ ra số tiền gần 100 ngàn đồng mới mua được 1m3 nước để xài, cứ như thế này vài tháng nữa không biết phải làm thế nào?
Ngày 11/7, ông Nguyễn Đức Hiền - Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Cấp thoát nước Kiên Giang (Kiwaco) thông tin: Cả hai hồ chứa nước khoảng 560.000m3 của công ty đã gần cạn, nếu không có nguồn nước bổ sung thì sẽ trơ đáy trong vài ngày nữa. Tình trạng thiếu nước diễn ra nhiều ngày nên Công ty Kiwaco đã phải cắt giảm lượng nước cung cấp, hiện chỉ còn khả năng đáp ứng khoảng 60% nhu cầu của người dân. Nguyên nhân của tình trạng trên là do từ đầu năm đến nay, nước mặn ngoài cửa biển liên tục xâm nhập sâu và tuyến kênh Rạch Giá - Long Xuyên là nguồn cấp nước duy nhất cho hai hồ chứa của Kiwaco. Mặt khác, mực nước từ đầu nguồn đổ về cũng thấp hơn cùng kỳ năm 2014 khoảng 70cm nên không đủ khả năng đẩy nước mặn trở ra biển.
Đây là hiện tượng thời tiết khá bất thường vì hiện tại đang là mùa mưa - ông Hiền lo lắng.
Xâm nhập mặn không chỉ tác động tiêu cực đến cuộc sống, sinh hoạt, nó còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến qúa trình canh tác, sản xuất của người dân. Theo Đài Khí tượng - Thủy văn khu vực Nam Bộ, tại các địa phương trên, nhiều nơi nước mặn đã xâm nhập sâu vào nội đồng từ 50 đến 60km, độ mặn cũng cao hơn những năm trước, khiến hàng chục nghìn ha lúa, hoa màu, cân ăn quả bị thiệt hại.
Từ đầu năm đến nay TP. Cần Thơ đã xảy ra gần chục vụ sạt lở nghiêm trọng, cuốn nhiều nhà dân xuống sông. Điều đáng lưu ý mật độ xảy ra sạt lở lại dày hơn vào mua khô. Điển hình là ngày 26-5 mới đây, tại khu vực Yên Thượng, phường Lê Bình, quận Cái Răng, TP.Cần Thơ xảy ra vụ sạt lở kinh hoàng, khiến 3 ngôi nhà sát bờ sông và đoạn đường đang thi công khoảng 100m nằm gọn dưới lòng sông Cần Thơ.
Khảo sát mới đây của Cục Phòng chống Thiên tai (Tổng cục Thủy lợi) cho thấy, hầu hết bờ biển của ĐBSCL đều bị xói lở do nước biển dâng, triều cường với nhiều mức độ khác nhau. Trong đó những đoạn bờ biển có tốc độ xói lở mạnh (từ 30 mét đên 100 mét/năm) là Tân Thành (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang); Hiệp Thạnh, Đông Hải (huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh); Gành Hào (tỉnh Bạc Liêu).
Giải pháp nhiều nhưng thiếu đồng bộ
Theo kịch bản BĐKH của Việt Nam, đến cuối thế kỷ này, nhiệt độ trung bình ở ĐBSCL có thể tăng thêm 1,3 - 2,8 độ C, mưa có thể tăng 4-8%, nước biển dâng theo kịch bản thấp là 66cm, cao là 99cm. Nước biển dâng cao 1m có thể làm 39% diện tích ở ĐBSCL bị ngập, 35% dân số bị ảnh hưởng. Đây là một trong những khu vực bị tổn thương nặng nề nhất của Việt Nam do tác động của BĐKH.
Tuy nhiên trao đổi với phóng viên Đại Đoàn Kết, ông Kỷ Quang Vinh, Chánh Văn phòng BĐKH TP. Cần Thơ cho rằng: BĐKH không còn là kịch bản hay “dự báo” nữa, thực tế nó đã có những tác động rất rõ nét, sâu sắc đến ĐBSCL. Đây là vấn đề cấp bách, cần có giải pháp đồng bộ, huy động sự vào cuộc, chung tay của cả cộng đồng và hệ thống chính trị.
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, chương trình hành động, dự án ứng phó với BĐKH có liên quan đến vùng ĐBSCL, trong đó có 17 dự án ưu tiên dành cho 13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã được phê duyệt. Các dự án này tập trung vào việc củng cố, nâng cấp, xây dựng mới hệ thống đê, kè sông, kè biển, nhiều công trình hạ tầng, trồng rừng phòng hộ ven biển, hệ thống công trình thủy lợi nhằm điều tiết lũ, ngăn mặn, giữ ngọt, nâng cao nhận thức của cộng đồng.…như dự án “Phát triển nông thôn bền vững và ứng phó BĐKH vùng ĐBSCL tại tỉnh Bến Tre” với tổng vốn của dự án là gần 25 triệu USD đã được triển khai được 1 năm nay.
Tuy nhiên PGS.TS Lê Anh Tuấn, Viện phó Viện Nghiên cứu BĐKH (Trường Đại học Cần Thơ) vẫn lo lắng: Các nỗ lực ứng phó với BĐKH ở các địa phương vùng ĐBSCL chỉ mới bước đầu, mang tính đối phó với những rủi ro thời tiết ở tầm ngắn hạn (từ 3 đến 5 năm). Vì thế về lâu dài, ở tầm trung hạn (5 đến 10 năm) và dài hạn (trên 10 đến 30 năm), ĐBSCL rất cần có kế hoạch và hành động ứng phó mang tính đột phá.
Một vấn đề đang đặt ra là tính thống nhất, liên thông của các dự án thích ứng với BĐKH hiện nay. Gần như các tỉnh đều có dự án để ứng phó với BĐKH. Song, các dự án này chưa thể hiện rõ tính liên thông cấp vùng, vì BĐKH không chỉ xảy ra trên cấp độ địa giới hành chính. Các dự án đề xuất vẫn còn nặng tính địa phương, dễ thấy nhất là các dự án xin cấp vốn xây kè chống sạt lở, thiếu đánh giá vai trò hệ thống rừng ngập mặn ven biển. Vì vậy ở đây phải nhấn mạnh tới vai trò của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ trong việc điều phối, kết hợp giữa các địa phương với nhau để thực hiện các dự án, giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu sao cho đồng bộ, hiệu quả từng địa phương nhưng có tính chất vùng.