Giảm rủi ro thanh toán xuyên biên giới
Thực tế hệ sinh thái thanh toán hiện nay phân tán, dù có thẻ quốc tế, thẻ nội địa, ví điện tử, QR code… tồn tại nhưng chưa có sự kết nối xuyên biên giới hiệu quả.
Việc thúc đẩy thanh toán xuyên biên giới không chỉ tạo ra tiện ích số cho kinh doanh và tiêu dùng, mà còn trở thành trụ cột quan trọng trong hành trình xây dựng nền kinh tế số. Tuy nhiên, ở Việt Nam thanh toán xuyên biên giới chưa thực sự phát triển. Các chuyên gia còn cảnh báo về những tiềm ẩn trên không gian mạng, đòi hỏi các quốc gia và cá nhân phải đầu tư mạnh mẽ vào an ninh và bảo mật để đảm bảo sự an toàn cho dòng tiền và dữ liệu.
Ông Nguyễn Hoàng Long - Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thanh toán quốc gia Việt Nam (Napas) chỉ rõ, hệ sinh thái thanh toán hiện nay vẫn còn phân tán. Thẻ quốc tế, thẻ nội địa, ví điện tử, QR code… tồn tại song song nhưng chưa có sự kết nối xuyên biên giới hiệu quả.
Các doanh nghiệp (DN) Việt Nam cũng chưa thể tận dụng tối đa dòng chi tiêu của khách quốc tế do thiếu hạ tầng thanh toán tương thích. Điều này không chỉ tạo rào cản cho du khách mà còn khiến DN Việt Nam bỏ lỡ một lượng lớn dòng chi tiêu từ khách nước ngoài.
“Việc kết nối thanh toán xuyên biên giới là yêu cầu cấp thiết nếu Việt Nam muốn phát triển du lịch, dịch vụ và thương mại số” – ông Long nhấn mạnh.
Theo bà Nguyễn Thị Thu - Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), thanh toán xuyên biên giới là các giao dịch tài chính mà người trả tiền và người nhận tiền ở hai quốc gia khác nhau, liên quan đến nhiều đồng tiền và các quy trình quyết toán ngoại hối chuyên biệt.
Nói kỹ hơn về thanh toán xuyên biên giới, bà Thu nêu 6 vấn đề: chính sách pháp lý, sự chênh lệch múi giờ, đồng tiền quyết toán, việc ứng dụng công nghệ mới, sự khác biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật và nguồn lực khi triển khai đa hệ thống.
Việc triển khai thực tiễn tại Việt Nam, bà Thu cho biết, khuôn khổ pháp lý cho thanh toán xuyên biên giới đã được quy định trong nhiều văn bản. Các quy định này được thể hiện trong Luật Các tổ chức tín dụng, Pháp lệnh Ngoại hối và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. Gần đây nhất là Nghị định 52/2024/NĐ-CP và Thông tư 34/2024/TT-NHNN do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Cũng theo bà Thu, Việt Nam đã kết nối thanh toán QR với Lào, Thái Lan, Campuchia và đang mở rộng sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore. Các giao dịch bước đầu ghi nhận kết quả tích cực, như kết nối với Thái Lan từ năm 2021 đến nay đạt hơn 56.000 giao dịch với giá trị gần 49 tỷ đồng.
Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cấp hạ tầng thanh toán, mở rộng mạng lưới chấp nhận QR và triển khai kết nối với nhiều đối tác mới như Ấn Độ, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia, Indonesia.
Cùng với xu hướng phát triển của thanh toán xuyên biên giới, vấn đề an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu cá nhân cũng được đặt ra ở mức cao hơn. Ông Vũ Ngọc Sơn - Trưởng ban Nghiên cứu, Tư vấn, Phát triển công nghệ và Hợp tác quốc tế (Hiệp hội An ninh mạng quốc gia) chia sẻ, động cơ phổ biến nhất của tin tặc là lợi ích tài chính khi chúng trực tiếp chiếm đoạt tiền, đánh cắp dữ liệu thẻ tín dụng hoặc khai thác ví điện tử để trục lợi.
Dữ liệu giao dịch và thông tin cá nhân trong các hệ thống này có giá trị rất cao trên thị trường ngầm, có thể dùng để lừa đảo, tống tiền hoặc bán cho các tổ chức tội phạm khác. Một số nhóm còn mang động cơ chính trị hoặc phá hoại, nhằm gây mất niềm tin vào hệ thống tài chính toàn cầu, làm suy yếu uy tín của quốc gia hoặc tổ chức. Tin tặc cũng lợi dụng khối lượng giao dịch khổng lồ để rửa tiền hoặc che giấu dấu vết, khiến việc phát hiện giao dịch bất thường trở nên khó khăn.
PGS.TS Phạm Thị Hoàng Anh - Học viện Ngân hàng nhận định: Giao dịch xuyên biên giới - đặc biệt trong biên mậu và các kết nối QR - đòi hỏi khung pháp lý song phương rõ ràng, tiêu chuẩn kỹ thuật thống nhất và cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan.
Theo bà Hoàng Anh, ngoài rủi ro kỹ thuật còn có rủi ro chính sách như an ninh tiền tệ quốc gia, tỉ giá, rửa tiền hay thanh toán khi chuẩn mực giữa các nước chưa đồng đều. “Chuẩn hóa từ sớm sẽ giúp giảm xung đột khi xảy ra sự cố” - bà Anh nhấn mạnh.
Vì vậy, dữ liệu cá nhân cần được bảo vệ từ các bước tối thiểu như phân quyền chặt chẽ, giám sát nhật ký truy cập, ẩn danh hoặc xóa dữ liệu khi hết mục đích, rà soát định kỳ các bên thứ ba có quyền truy cập.