Từ phụ phẩm nông nghiệp đến sản phẩm toàn cầu
Từ những sợi lá dứa, xơ mướp, cỏ năng tượng cho đến bã cà phê - những nguyên liệu từng bị xem là rác, nay đang dần hóa thành “vàng xanh”. Các nguyên liệu trên không chỉ góp phần giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, nguồn nguyên liệu bản địa mà còn mở ra hướng đi mới cho doanh nghiệp Việt Nam.

Cỏ hóa thành nguyên liệu sản xuất
Tại tọa đàm “Khám phá tài nguyên bản địa Việt Nam” do Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam Chất lượng cao và Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA) tổ chức ngày 24/8, nhiều chuyên gia và doanh nghiệp (DN) đã chia sẻ những câu chuyện thú vị về hành trình “hóa phép” cỏ cây bản địa, phụ phẩm nông nghiệp thành nguyên liệu công nghiệp.
Đơn cử như Faslink - công ty hơn 17 năm gắn bó với ngành thời trang bền vững, đã đưa sợi lá dứa vào sản xuất áo sơ mi, tất, thậm chí cả vải kháng khuẩn. “Sợi lá dứa có khả năng chống nắng, kháng khuẩn, khử mùi tự nhiên. Hồ sơ chất lượng lên đến 40 trang và đã được kiểm định bởi đơn vị độc lập. Khi còn thấy có công dụng, ta không nên coi là rác mà chính là phụ phẩm nông nghiệp quý giá”, bà Trần Hoàng Phú Xuân - Tổng Giám đốc Faslink chia sẻ.
Từ xơ mướp, một nguyên liệu dân dã quen thuộc, ông Đỗ Đăng Khoa – nhà sáng lập Làng Mướp đã xây dựng thành công nhiều dòng sản phẩm xuất khẩu. “Xơ mướp có thể làm đồ chơi thú cưng, sản phẩm chăm sóc cơ thể, đồ gia dụng… Chúng tôi đã xuất khẩu sang Nhật suốt 10 năm qua, nay đang mở rộng sang Châu Âu. Thiên nhiên cho ta những vật liệu tuyệt vời, chỉ cần biết cách tái sinh” - ông Khoa nói.
Trong khi đó, ông Lai Trí Mộc - Tổng Giám đốc Vietnam Housewares lại đặc biệt quan tâm đến cỏ năng tượng – một loài cỏ mọc tự nhiên ở vùng nước phèn, nước mặn miền Tây. “Trước kia nông dân chỉ coi cỏ năng tượng là rác, nay được thu mua làm nguyên liệu, bà con rất phấn khởi. Dù không bền bằng nguyên liệu khác, nhưng cỏ năng tượng lại có tính năng độc đáo, dễ tạo hình, chi phí thấp và phù hợp thủ công mỹ nghệ” - ông Mộc bày tỏ. Không dừng lại ở đó, bã cà phê – sản phẩm tưởng chừng bỏ đi đã trở thành nguyên liệu sản xuất áo sơ mi xuất khẩu sang Mỹ và tất xuất khẩu vào thị trường Trung Đông. Sự sáng tạo này cho thấy khả năng vô tận trong việc tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp xanh.
Từ lá dứa, xơ mướp, cỏ năng tượng đến bã cà phê, các loại phụ phẩm này đều đang dần chứng minh giá trị không chỉ về kinh tế mà còn ở tầm nhìn phát triển bền vững. Bà Vũ Kim Hạnh - Chủ tịch Hội DN Hàng Việt Nam chất lượng cao nhấn mạnh: “Cái từng bị xem là rác giờ đã trở thành nguyên phụ liệu, có thể làm thành áo thun cho người Nhật, vào siêu thị Walmart. Lá dứa không còn là phế phẩm mà là nguyên liệu quý, biến thành “vàng xanh” nếu biết cách khai thác”. Theo bà Hạnh, việc sáng tạo ra những chất liệu mới từ cỏ cây bản địa không chỉ giúp đa dạng sản phẩm mà còn giảm sự lệ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt trong ngành dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ.
Thị trường - thách thức lớn của “vàng xanh”
Mặc dù cỏ cây bản địa Việt Nam được xem là tiềm năng về nguyên liệu cho các ngành, song câu chuyện nguyên liệu mới chỉ là bước khởi đầu. Vấn đề lớn hơn, chính là thị trường. Làm thế nào để tìm được thị trường, chinh phục người tiêu dùng toàn cầu bằng chính cỏ cây bản địa.
Ông Lai Trí Mộc cho biết, ngành thủ công mỹ nghệ vốn không yêu cầu quá khắt khe như dệt may, nhưng để chinh phục được các tập đoàn bán lẻ toàn cầu thì tính bền, chất lượng và giá thành là yếu tố then chốt. “Nếu không chủ động được nguồn nguyên liệu, doanh nghiệp sẽ khó cạnh tranh. Nhiều nước như Pakistan, Bangladesh đã chuyển dịch mạnh sang khai thác giá trị cao từ nguyên liệu bản địa nên chúng ta cũng phải quyết liệt hơn” - ông Mộc giải thích.
Tương tự, ngành dệt may xuất khẩu tới 46 tỷ USD trong năm 2024 nhưng điểm yếu của ngành dệt may Việt Nam vẫn chủ yếu gia công, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Chính vì vậy, theo bà Trần Hoàng Phú Xuân - Tổng Giám đốc Faslink, việc thương mại hóa nguyên liệu bản địa là cần thiết nhưng đòi hỏi chiến lược dài hơi. “Thị trường quốc tế đòi hỏi tiêu chuẩn cao, từ kiểm định chất lượng, chứng nhận sức khỏe cho đến khả năng sản xuất hàng loạt với giá thành phù hợp. Nếu không đầu tư tốt cho xúc tiến thương mại, sản phẩm khó có thể bán được giá cao” - bà Xuân nhấn mạnh.
Thực tế, nhiều DN mới chỉ dừng ở gia công xuất khẩu, chưa đủ năng lực xây dựng thương hiệu quốc tế. “Faslink đã có những đơn hàng xuất khẩu từ bã cà phê, nhưng để đi xa hơn cần gia tăng năng lực thương mại và xây dựng thị trường nội địa bền vững trước khi vươn ra toàn cầu” – đại diện Faslink chia sẻ thêm. Ở góc nhìn khác, ông Đỗ Đăng Khoa lại nhìn thấy tiềm năng lớn ngay trong thị trường nội địa. “Người tiêu dùng Việt Nam bắt đầu quan tâm đến sản phẩm xanh. Trên kênh TikTok, chúng tôi livestream mỗi ngày, đơn hàng tăng đều. Người mua sẵn sàng chi thêm 30-60% cho sản phẩm sạch, bền vững, miễn là đẹp và tiện ích” - ông Khoa thông tin.
Khi những phụ phẩm từng bị xem là rác hóa thành nguyên liệu sản xuất thì câu chuyện không chỉ là đổi mới sản phẩm, mà còn là thay đổi cách nhìn về tài nguyên bản địa. Cỏ năng tượng, lá dứa, xơ mướp hay bã cà phê, tất cả đang dần được “hóa vàng”, góp phần đưa sản phẩm Việt Nam lên kệ hàng quốc tế. Song, để đi xa hơn, DN cần giải được bài toán thị trường và giá thành, biến lợi thế nguyên liệu thành lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt, cần có sự phối hợp giữa DN, nhà khoa học, cơ quan quản lý trong việc chuẩn hóa chất lượng, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại.