Nghĩa vụ với biển đảo
Ngày 21/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về báo cáo của Đoàn giám sát về kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với cá nhân, tổ chức khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản trong phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh”. Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho rằng, cần tiếp tục có các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện tốt hơn cho ngư dân thúc đẩy phát triển kinh tế biển, ra khơi bám biển; đồng thời xử lý nghiêm những hành
Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa ở Lý Sơn (Quảng Ngãi).
Hỗ trợ ngư dân là một chính sách lớn của Đảng, Nhà nước. Nước ta có chiều dài bờ biển trên 3.260 km, với nguồn hải sản dồi dào, sản lượng khai thác ở giới hạn cho phép khoảng 2,2 triệu tấn/năm, trong đó, nguồn lợi hải sản xa bờ được dự báo còn nhiều tiềm năng khai thác với trữ lượng 1,5 triệu tấn/năm. Con số của năm 2011: Tàu thuyền các loại tham gia khai thác hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá trên các vùng biển, hải đảo, giải quyết việc làm cho khoảng 4 triệu lao động, trong đó lao động trực tiếp đánh bắt hải sản biển khoảng 850.000 người. Đó là những con số mang ý nghĩa rất lớn.
Tới nay, tiếp tục triển khai Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, nhiều nguồn lực đầu tư và chính sách hỗ trợ ngư dân được đẩy mạnh, trong đó phải kể đến việc đầu tư xây dựng cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão; hỗ trợ đóng tàu và cơ sở vật chất phục vụ trực tiếp việc khai thác hải sản; hỗ trợ công tác đào tạo, nâng cao trình độ cho ngư dân; tổ chức cho ngư dân sản xuất theo mô hình tổ, đội sản xuất; thực hiện nhiều chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ giải quyết khó khăn, nâng cao đời sống cho ngư dân…
Đáng chú ý, trong các chính sách hỗ trợ ngư dân là Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 7-7-2014 của Chính phủ hỗ trợ phát triển mạnh mẽ ngành đánh bắt thủy sản, cũng như dần thay đổi phương thức đánh bắt cũ, hình thành phương thức đánh bắt mới hiện đại, nâng cao giá trị thủy sản. Nghị định cũng quy định đồng bộ các chính sách cơ bản về việc khuyến khích ngư dân đóng tàu công suất lớn, vỏ thép để dần chuyển từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ có giá trị kinh tế cao hơn, đồng thời góp phần bảo vệ vùng biển nước ta.
Trong đó, nổi bật nhất là chính sách tín dụng hỗ trợ đóng tàu, với mức lãi suất hết sức ưu đãi từ 1-3%/năm; Nhà nước cấp bù từ 4-6%, với thời gian cho vay là 11 năm, trong đó có một năm ân hạn, hạn mức cho vay từ 70-95% giá trị đóng mới tàu. Triển khai cụ thể, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Theo Quyết định 3602/QĐ-BNN-TCTS, số tàu khai thác hải sản xa bờ đóng mới bổ sung là 2.070 chiếc (trong đó, Vịnh Bắc Bộ 41 chiếc; Trung Bộ: 1.057 chiếc; Đông Nam Bộ: 426 chiếc; Tây Nam Bộ: 185 chiếc). Số lượng tàu dịch vụ hậu cần phục vụ cho khai thác hải sản xa bờ đóng mới bổ sung 205 chiếc (trong đó, Vịnh Bắc Bộ: 43 chiếc; Trung Bộ: 105 chiếc; Đông Nam Bộ: 37 chiếc; Tây Nam Bộ: 20 chiếc).
Thời gian qua, việc hỗ trợ ngư dân được xác định không chỉ là một chính sách mà còn là một chiến lược: phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ lãnh hải, an ninh Tổ quốc. Vì vậy, công việc này được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ. Còn nhớ khi sự cố môi trường biển với các tỉnh Bắc miền Trung, Chính phủ đã vào cuộc rất quyết liệt xác định nguyên nhân, yêu cầu nhà đầu tư đền bù cho ngư dân cũng như những người chịu tác động trực tiếp từ sự cố.
Cùng với việc đền bù vật chất, người dân khu vực này còn được hỗ trợ đào tạo để chuyển đổi nghề, thực hiện chế độ miễn giảm học phí đối với học sinh là con em ngư dân; Hỗ trợ hàng năm 100% kinh phí mua bảo hiểm tai nạn thuyền viên cho mỗi thuyền viên làm việc trên tàu; Hỗ trợ hàng năm kinh phí mua bảo hiểm thân tàu, trang thiết bị, ngư lưới cụ trên mỗi tàu (bảo hiểm mọi rủi ro) với mức: 70% kinh phí mua bảo hiểm đối với tàu có tổng công suất máy chính từ 90CV đến dưới 400CV; 90% kinh phí mua bảo hiểm đối với tàu có tổng công suất máy chính từ 400CV trở lên...
Tuy nhiên, cùng với những nỗ lực ấy thì thời gian qua việc hỗ trợ ngư dân cũng bộc lộ những hạn chế cần nhanh chóng khắc phục. Trong đó nổi bật là việc cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa đầy đủ nguyên tắc Hiến định về kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh. Trên thực tế, khi vươn khơi đánh bắt hải sản, mỗi con tàu như một cột mốc chủ quyền, mỗi ngư dân như một dân binh tham gia giữ gìn vùng biển của đất nước.
Biển khơi mênh mông, sóng nước chập chùng, những con tàu của ngư dân phải đương đầu với nhiều hiểm nguy. Không chỉ hiểm nguy đến từ thiên nhiên, tàu bị hỏng hóc, mà hiểm nguy còn đến từ con người, trong đó có nạn cướp biển, bị tàu nước ngoài vô cớ tấn công. Hiểm nguy là thế, nhưng vì là việc mưu sinh và cũng là việc thực hiện nghĩa vụ công dân đối với biển đảo của đất nước, nên hàng ngày ngư dân vẫn ra khơi đánh bắt, bám biển và giữ biển.
Câu chuyện ngày hôm nay khiến người ta nhớ lại đội dân binh Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa được các chúa Nguyễn lập ra từ mấy trăm năm trước. Lúc bấy giờ, con thuyền chỉ như chiếc lá tre trên sóng nước Biển Đông, nhưng những con người dũng cảm vẫn đạp sóng gió ra khơi. Ghi nhớ công ơn tiền nhân, hàng năm lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa vẫn được người dân huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) tổ chức một cách trang trọng.
Ai có dịp đến Lý Sơn sẽ không thể quên được những ngôi mộ gió như lời kinh cầu từ sâu thẳm của những người đang sống với những người bỏ thân trên biển hãy theo sóng nước mà trở về. Hiệu lệnh ra khơi qua tiếng ốc u không còn thì nó vẫn như lời nhắc nhở da diết trong ký ức dân tộc về nghĩa vụ của mỗi một người Việt Nam với biển đảo quê hương.
Biển của chúng ta tuy giàu có nhưng cũng không phải là vô hạn. Vì vậy, cùng với việc tổ chức đánh bắt quy mô thì việc gìn giữ nguồn tài nguyên phải được coi là “của để dành” cho con cháu muôn đời sau. Không thể đánh bắt theo lối tận diệt, cũng không thể đang tâm tống chất thải vào lòng biển.
Vấn đề giữ trong lành biển cần phải được đặt ra một cách quyết liệt hơn bao giờ hết, bởi thực tế thời gian qua người ta đã phải đau lòng chứng kiến không ít vùng biển bị ô nhiễm, mà điển hình là biển Bắc miền Trung qua sự vi phạm của Formosa. Phát triển nghề cá, nuôi trồng hải sản, xây dựng những đô thị mới, những nhà máy ven biển nhất thiết phải đi cùng với việc bảo vệ biển. Chỉ có như vậy, những chính sách hỗ trợ ngư dân, phát triển kinh tế biển mới thực sự hiệu quả, đúng hướng.